I/ HIỆN TRẠNG VUÔNG MÔ HÌNH TÔM – RỪNG ỨNG DỤNG QUY TRÌNH

Cấu trúc hệ thống vuông tôm-rừng gồm các phần như: Bờ bao quanh vuông và bờ bên trong vuông; mương bao và mương bên trong vuông; hệ thống cống cấp thoát nước. Trong đó, tỷ lệ diện tích mương chiếm khoảng 30-40% diện tích vuông.
– Bờ bao quanh vuông: Thường cao từ 1,6 – 2m (tính từ đáy mương lên mặt bờ), đảm bảo cao hơn mực nước lớn nhất trong năm từ 0,3-05m. Độ rộng mặt bờ từ 4 – 6m. Trên bờ có trồng cây rừng phát triển.
– Bờ bên trong vuông: Thường nhỏ hơn bờ bao quanh vuông. Bên trên cũng trồng cây rừng phát triển.
– Mương bao quanh vuông: Có độ sâu mực nước từ 1,2-1,6m và chiều rộng mương từ 4-6m.
– Mương phụ bên trong vuông: Thường nhỏ và cạn hơn mương bao quanh vuông. Có độ sâu mực nước khoảng 0,6 – 1,6m và chiều rộng từ 2-6m. Mương phụ bên trong vuông có thể đào dọc hoặc ngang theo hướng cống cấp và xổ nước. Ở những vuông lớn nên thiết kế nhiều mương bên trong vuông.
– Hệ thống cống cấp thoát nước: Mô hình tôm-rừng ở vùng ĐBSCL thường bắt buộc phải có hệ thống cống. Cống là hệ thống trung gian giữa cấp nước, xổ nước và thu tôm theo con nước thủy triều. Tùy theo diện tích vuông lớn hay nhỏ cần thiết kế 1 hay 2 cống cho phù hợp. Đối với vuông có diện tích < 5 ha thì chỉ cần 1 cống, đối với vuông có diện tích > 5 ha cần phải thiết kế 2 cống mới chủ động cho việc cấp và thoát nước. Tốt nhất thiết kế bằng xi măng và khẩu độ rộng từ 0,8 -1,2m. Chiều dài đảm bảo không bị xối lỡ khi cấp và xổ nước. Cao độ cống thường cao hơn mực nước lớn nhất 0,5m và đặt sâu hơn đáy mương.
Lưu ý: Việc thiết kế hệ thống mương nuôi tôm và bờ trồng rừng ở mô hình nuôi tôm – rừng phải phải tuân thủ theo tỷ lệ diện tích tôm/rừng quy định của Pháp luật của từng địa phương.