KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG RỪNG NGẬP MẶN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG – Phần 1
MỞ ĐẦU
Rừng ngập mặn được xem là bãi đẻ của nhiều loài thủy sản, nơi lưu giữ và bảo tồn thiên nhiên, và cũng là nơi chắn giữ, hạn chế những tác động thiên tai. Vì vậy sự phát triển bền vững nghề nuôi tôm và bảo tồn rừng ngập mặn đều nằm trong những ưu tiên quốc gia.
Cũng giống như mô hình tôm-lúa, mô hình tôm-rừng (hay rừng-tôm) là mô hình nuôi có những đặc tính riêng. Đối với mô hình tôm-lúa, thì tính đặc thù riêng đó là thả tôm nuôi vào mùa khô, khi độ mặn bắt đầu xâm nhập vào nội đồng, và trồng lúa vào mùa mưa, khi lượng mưa nhiều và độ mặn hạ thấp, lúa được trồng trên trảng bên trong ruộng. Đối với mô hình tôm-rừng thì tính đặc thù riêng đó là thả tôm nuôi trong những mương nước vùng rừng ngập triều, cây rừng phát triển trên những trảng bên trong và bờ bao. Mặc dù mô hình tôm-rừng và tôm-lúa có những đặc tính riêng nhưng chúng lại có một số ý nghĩa rất giống nhau đó là: (i) Đây là những mô hình được đánh giá phát triển bền vững về mặt môi trường, bởi mô hình thả giống nuôi mật độ thấp; chủ yếu sử dụng thức ăn tự nhiên, phân hữu cơ hoặc vi sinh có kiểm soát môi trường; không sử dụng hóa chất, thuốc kháng sinh trong quá trình nuôi. (ii) Sản phẩm thu đa dạng, ngoài sản phẩm từ giống thả bổ sung (tôm, cua, cá) còn có thể thu được các sản phẩm tự nhiên khác (tôm thiên nhiên, cua, cá nghêu, sò). (iii) Chất lượng sản phẩm thu được luôn được đánh giá cao hơn các sản phẩm từ mô hình nuôi khác, nên đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao của Quốc tế về an toàn thực phẩm, giúp sản phẩm nhận được giá cao hơn trên thị trường. Ngoài sản phẩm tôm nuôi từ mô hình tôm-rừng được nhiều nước trên thế giới quan tâm thì hiện nay sản phẩm tôm-rừng còn được xem xét chứng nhận đây là sản phẩm “tôm sinh thái”.
Để giúp bà con canh tác tôm-rừng có được những kiến thức cơ bản về kỹ thuật nuôi tôm và đội ngũ cán bộ Khuyến nông – Khuyến ngư cơ sở và cộng tác viên Khuyến nông củng cố thêm những kiến thức nâng cao về kỹ thuật nuôi tôm trong rừng ngập mặn theo hướng bền vững và đạt hiệu quả cao về mặt năng suất, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tài liệu “Kỹ thuật nuôi tôm trong rừng ngập mặn theo hướng bền vững”.
Tài liệu này chỉ với mục đích giới thiệu về mô hình kết hợp thả tôm nuôi xen canh với cây rừng, không phải mô hình nuôi tôm bán thâm canh/thâm canh hay mô hình nuôi tôm QCCT với diện tích tách biệt với rừng.
I. LỊCH THỜI VỤ VÀ THIẾT KẾ HỆ THỐNG CANH TÁC TÔM-RỪNG
- THỜI VỤ
Mô hình tôm-rừng được giới thiệu trong tài liệu này là mô hình kết hợp thả tôm nuôi xen canh với phát triển cây rừng nên lịch thời vụ có khác hơn các mô hình nuôi tôm BTC/TC, tôm-lúa, tôm QCCT có diện tích tách biệt. Lịch thời vụ chung cho nuôi tôm trong mô hình tôm-rừng như sau:
– Thả tôm giống và chăm sóc, quản lý tôm nuôi: Có thể thả tôm giống liên tục và nuôi quanh năm. Trừ thời điểm sên vét, cải tạo lại vuông.
– Thời điểm sên vét bùn đáy và cải tạo lại vuông: Tùy theo điều kiện của từng nông hộ có thể tiến hành sên vét bớt bùn ở đáy mương và cải tạo lại vuông khác nhau, ở các thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, nếu những vùng có quy định riêng của chính quyền địa phương thì cần tuân thủ theo quy định này.
– Thả bổ sung các loài thủy sản khác: Tùy theo điều kiện của từng nông hộ có thể tiến hành thả bổ sung thêm cua, cá, nghêu sò để góp phần tăng thu nhập.
- THIẾT KẾ HỆ THỐNG NUÔI
Việc thiết kế hệ thống nuôi tôm xen canh với phát triển cây rừng phải tuân thủ theo tỷ lệ diện tích tôm/rừng quy định của Pháp luật. Mặt khác cần phải đạt một số tiêu chí sau:
2.1. Hệ thống bờ bao:
Bờ bao chắc chắn và đủ rộng sẽ góp phần hạn chế tối đa việc thẩm lậu nước vuông nuôi. Vì phần lớn địa chất yếu, kết cấu chất đất thường là bùn hữu cơ và sét hữu cơ do quá trình phân hủy trầm tích lâu năm. Mặt khác hệ sinh thái tôm-rừng thường rất đa dạng loài sinh vật có khả năng đào hang nên bờ rộng là rất cần thiết cho nuôi tôm theo hướng bền vững. Việc thiết kế bờ bao rộng còn góp phần tăng diện tích phủ xanh của cây rừng, đáp ứng được yêu cầu tỷ lệ diện tích phủ xanh theo quy định Pháp luật.
Độ rộng mặt bờ tốt nhất từ 4 – 6m và cao hơn mực nước lớn nhất trong năm 0,3-0,5m.
2.2. Hệ thống cống:
| Cống là hệ thống trung gian giữa cấp nước và xổ nước, nên tùy theo diện tích vuông lớn hay nhỏ cần thiết kế 1 hay 2 cống cho phù hợp.
Đối với vuông có diện tích < 5 ha thì chỉ cần 1 cống là có thể cung cấp đủ nước cho vuông và xổ hết nước trong vuông (khi cần thiết) trong 1 chu kỳ con nước thủy triều. Đối với vuông có diện tích > 5 ha cần phải thiết kế 2 cống mới chủ động cho việc cấp và thoát nước. |
|
| Thông thường cống cấp và xổ nước trong mô hình tôm-rừng còn dùng để thu tôm theo con nước thủy triều, nên tốt nhất thiết kế bằng cống xi măng và khẩu độ rộng từ 0,8 – 1,2m. Chiều dài đảm bảo không bị xối lỡ khi cấp và xổ nước. Cao độ cống thường cao hơn mực nước lớn nhất 0,5m và đặt sâu hơn đáy mương từ 0,2 – 0,5m. | |
2.3. Hệ thống mương:
Mương nước là nơi cho tôm, cua, cá và động vật thủy sản khác sống. Mương gồm có mương chính và mương phụ. Mương chính thường dọc theo bờ bao quanh vuông và nên thiết kế sâu, rộng hơn mương phụ. Mương phụ ở bên trong vuông, tốt nhất thiết kế dọc theo hướng cấp và xổ nước (Hình 1 và Hình 2).
Cần tính toán tỷ lệ diện tích mương đảm bảo chiếm từ 30-40% diện tích vuông và đảm bảo tỷ lệ diện tích đất rừng còn lại đủ phủ xanh theo quy định của Pháp luật.
Độ rộng mương chính tốt nhất từ 4 – 6m, mương phụ từ 2 – 6m.
2.4. Hệ thống ương/gièo tôm giống:
| Do đặc thù hệ sinh thái tôm-rừng thường đa dạng loài sinh vật sống chung môi trường như cá tạp, tôm tạp, cua còng, rắn,… Đây là những đối tượng địch hại của tôm nuôi, đặc biệt là những tôm nhỏ mới thả, và thường cải tạo vuông không diệt triệt để hết những loài địch hại này nên tốt nhất thiết kế thêm hệ thống ương/gièo tôm. Mục đích của việc thiết kế hệ thống ương là kiểm soát số lượng và chất lượng tôm đầu vào, giúp tôm giống đạt kích cỡ lớn hơn, hạn chế bị các đối tượng địch hại tiêu diệt. | |
| Hệ thống ương/gièo tôm giống có thể là ao đất hoàn chỉnh riêng biệt, hay có thể dung là 1 đoạn mương được che chắn 2 đầu, hay sử dụng những giai lưới đặt ngay trong mương. | |

II. CHUẨN BỊ VUÔNG NUÔI
Cải tạo vuông nuôi là yêu cầu kỹ thuật cần thiết trước mỗi vụ nuôi. Việc cải tạo vuông nuôi có liên quan đến môi trường nước trong thời gian nuôi, sức khỏe tôm nuôi, và gián tiếp tác động đến các chỉ tiêu thu hoạch.
- CẢI TẠO VUÔNG NUÔI
Trình tự các bước công việc như sau:

1.1. Sên vét bùn đáy:
| Tùy theo điều kiện của từng nông hộ, có thể -3 năm/lần sên vét bùn đáy mương vì sau 1 năm lượng chất thải từ phân tôm, xác tôm lột, xác tảo tàn và đặc biệt là lượng hữu cơ phân hủy từ lá, canh, cây rừng là rất lớn. Đây là những chất thải hữu cơ góp phần làm ô nhiễm môi trường nước, đáy và là nền tảng sản sinh ra những khí độc NH3, NO2, H2S,…
Đối với mô hình nuôi mà tuổi cây rừng càng cao thì lượng chất thải hữu cơ càng nhiều. Sên vét bớt lớp bùn đáy mương, có thể sên vét thủ công bằng tay hoặc bằng cơ giới. |
|
| ⮚ Nơi chứa bùn non? Tùy theo lượng bùn non nhiều hay ít có thể chứa ở vườn, đưa lên bờ, đưa vào nơi chứa bùn đã thiết kế sẵn, hay có thể đưa lên trảng rừng. | |
1.2. Rửa đáy mương:
Sau khi sên vét bùn đáy mương xong cần tiến hành lấy nước vào ngâm khoảng 2 ngày sau đó xả bỏ, việc rửa vuông cần tiến hành 2-3 lần là tốt nhất.
Thông thường giai đoạn này người nuôi kết hợp sử dụng dây thuốc cá hay Saponin để diệt cá tạp.
1.3. Bón vôi:
| Nên bón vôi ở mương. Tùy vùng đất phèn nhiều hay ít lượng vôi có thể sử dụng khác nhau, trung bình từ 500-1.000 kg CaO/ha mương. Tốt nhất nên bón vôi lúc trời mát và vôi đá CaO có tác dụng sát trùng, cải tạo đáy tốt hơn vôi nông nghiệp CaCO3. |
1.4. Phơi vuông:
Thông thường mô hình tôm-rừng không thể xổ cạn hết nước ở mương, chỉ có thể xổ cạn nước ở những trảng cao do đó việc phơi đáy mương là không thể, chỉ có thể phơi được những trảng cao.
☞ Một số vấn đề cần trao đổi về ý nghĩa của việc cải tạo vuông:
(1) Làm sạch nền đáy; (2) Rửa phèn; (3) Khoáng hóa đáy (Giải phóng khí độc); (4) Tiêu diệt mầm bệnh; (5) Cải thiện môi trường đất, nước; (6) Giảm thiểu bệnh, tôm lớn nhanh, nâng cao tỷ lệ sống và năng suất tôm nuôi.