KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG RỪNG NGẬP MẶN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG – Phần 2
III. CHUẨN BỊ NƯỚC TRƯỚC THẢ TÔM GIỐNG
| 1. Cách lấy nước:
Sau khi cải tạo vuông xong tiến hành chọn nước tốt lấy vào vuông. Phải lấy nước thông qua túi lọc nước chuyên dùng hay lưới chắn. Thời điểm không xảy ra dịch bệnh; nước không bị phát sáng, nhiều váng bọt. |
- Cách chuẩn bị nước:
Các bước thực hiện trong giai đoạn chuẩn nước như sau:

2.1. Bón phân gây màu:
Bón phân gây màu nước trước khi thả giống là việc làm cần thiết nhằm tạo thức ăn tự nhiên cho tôm ở giai đoạn đầu.
Có thể sử dụng phân vô cơ như DAP, NPK hay Ure để gây màu. Liều lượng sử dụng là 10-15 kg/ha mặt nước mương và bón liên tục 3-5 ngày đến khi độ trong đạt từ 30-35 cm và có màu tốt thì sau đó giảm xuống còn 5 kg/ha/định kỳ 3-4 ngày/lần.
Nên hòa tan phân thành nước rồi tạt khắp mặt mương vào thời điểm trời nắng.
2.2. Kiểm tra môi trường:
Cần kiểm tra các yếu tố môi trường trước khi thả tôm giống. Các yếu tố môi trường chính cần kiểm tra là pH, độ kiềm, độ trong, màu nước, NH3.
Khoảng dao động phù hợp cho tôm sinh trưởng và phát triển là: pH: 7,2 – 8,5 ; Độ kiềm: 80–180 mg/L ; Độ trong: 25–40 cm; Màu nước: xanh nhạt, vàng nhạt, nâu.
2.3. Cấy vi sinh:
Trước khi thả giống 2-3 ngày nên sử dụng vi sinh tạt đều khắp mặt vuông. Liều lượng vi sinh có thể khác nhau tùy theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tuy nhiên, thực tế cho thấy để vi sinh vật có lợi phát triển tốt nhất, tạo sinh khối ưu thế vi khuẩn có lợi kìm hãm sự phát triển vi khuẩn có hại trong môi trường nước ngay từ đầu thì có thể sử dụng liều cao hơn hướng dẫn của nhà sản xuất.
Thời gian sử dụng vi sinh tốt nhất là lúc trời nắng 9-11 giờ.

IV: TÔM GIỐNG VÀ THẢ GIỐNG
Tôm giống là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của mô hình nuôi. Để con giống đạt chất lượng và đạt đầu con ngay ban đầu thả cũng như nâng cao tỷ lệ sống, tăng trưởng của tôm trong thời gian nuôi, các giải pháp lựa chọn giống, thả giống cần đặc biệt quan tâm.
- Chọn tôm giống
| Con giống được chọn lựa phải đạt tiêu chuẩn ngành. Được sản xuất từ những cơ sở có uy tín, có nguồn gốc rõ ràng. Ngoài kiểm tra bằng cảm quan, cần xét nghiệm (PCR hoặc Mô học) trước khi thả.
Tiêu chuẩn cảm quan: Tôm đồng điều, kích cỡ P12-13, phản xạ nhanh, màu sắc trong sáng, cơ thể sạch, thức ăn đầy ruột, không bị phát sáng. |
- Thả giống:
Tôm giống trước khi thả ra vuông cần thuần hóa môi trường. Tùy theo độ chênh lệch nhiệt độ, độ mặn và pH tôm được thuần hóa bằng cách thả những bao tôm trôi nỗi trên mặt nước từ 10-15 phút, sau đó mở bao cho nước vuông vào từ từ và nghiêng bọc cho tôm bơi từ từ ra. Nên thả tôm trên gió và thời điểm sáng sớm hay chiều mát.
Để ổn định về năng suất, tôm đạt kích cỡ lớn và phát triển bền vững khuyến cáo số lần thả và mật độ thả giống như sau:
– Tổng số lần thả giống trong năm: Tốt nhất khoảng 4 lần/năm, ở 2 lần đầu cách nhau khoảng 1,5-2 tháng, ở các lần sau nên cách nhau 2,5-3 tháng/lần.
– Mật độ thả: Mật độ 2 lần đầu từ 2-3 con/m2 mặt nước, mật độ các lần sau từ 1,5-2 con/m2. Tương ứng tổng lượng tôm giống trong năm là ≤ 9 con/m2 (không kể thu tỉa).
☞ Một số vấn đề cần trao đổi về tôm giống và thả giống:
(1) Nên thông báo với cơ sở cung cấp giống về độ mặn ao chuẩn bị thả giống trước 2-3 ngày để cơ sở chủ động điều chỉnh độ mặn trước khi bắt.
(2) Nếu chênh lệch độ mặn giữa nước trong bao và nước trong vuông > 5‰ cần phải thuần hóa tôm giống một thời gian mới thả. Trong 1 giờ có thể thuần hóa giảm độ mặn xuống 7 đơn vị (7 ‰), nhưng không nên thuần hóa giảm liền 10 đơn vị (10 ‰) trong 2 giờ liền.
(3) Thường tôm giống sẽ không đạt tỷ lệ sống cao nếu chúng ta thuần hóa ngược (bị sốc ngược) độ mặn. Thuần hóa ngược tức là nâng độ mặn tăng trở lại.
(4) Ở những mô hình có điều kiện thiết kế thêm khu ương/gièo tôm riêng biệt thì có thể tăng số lần thả tôm giống trong năm lên 5-6 lần/năm, tuy nhiên tổng số lượng tôm giống cũng không nên quá > 10 con/m2.
(5) Mô hình tôm-rừng có thể thả nuôi kết hợp với cua (mật độ cua giống từ 0,5-0,7 con/m2), kết hợp với thả cá, hay thả bổ sung nghêu sò.

V: QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG NUÔI
Trong tự nhiên, sinh vật và môi trường sống luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đặc biệt đối với môi trường thủy sinh vật. Môi trường sống thay đổi theo chiều hướng tốt, thuận lợi thì thủy sinh vật tồn tại và phát triển. Môi trường sống thay đổi theo chiều hướng xấu, không thuận lợi thì những thủy sinh vật nào thích ứng sẽ duy trì được cuộc sống, những sinh vật nào không thích ứng sẽ bệnh và chết. Tôm nuôi trong vuông cũng là một sinh vật sống nên cũng chịu tác động bởi quy luật trên.
- Những yêu cầu về chất lượng nước nuôi tôm
Trong thực tế, các yếu tố môi trường quan trọng được người nuôi quan tâm nhất là: pH, độ kiềm, độ mặn, nhiệt độ, NH3, độ sâu, độ trong, màu nước.
Khoảng dao động thích hợp nhất của các yếu tố môi trường nuôi tôm
| Thông số | Đơn vị | Khoảng thích hợp nhất |
| pH | 7,5 – 8,2; biến động trong ngày < 0,5 | |
| Ðộ kiềm | mg/L | 120 – 180 |
| Ðộ mặn | S‰ | 5 – 10 |
| Nhiệt độ | oC | 28 – 31 |
| Ðộ trong | cm | Giai đoạn đầu: 30-35 cm, sau đó có thể đục hơn |
| Màu nước | Xanh đọt chuối, vàng rơm, vàng xanh. | |
| NH3 | mg/L | < 0,1 |
| Độ sâu mương | cm | 1,2 – 1,6 |
Bên cạnh những yếu tố trên, các yếu tố NO3, NO2 và H2S cũng được quan tâm nhưng không được đánh giá cao trong quá trình quản lý.
- Một số biện pháp quản lý môi trường nước
2.1. Độ pH
pH là ký hiệu để chỉ độ chua, độ phèn, chỉ số in H+ trong nước. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến pH như: Chất đất, mật độ tảo, sự tích tụ hữu cơ, hệ đệm trong nước thấp, sử dụng vôi, hóa chất và thay đổi thời tiết.
Nếu pH cao, tôm khó lột xác, tôm giảm bắt mồi, tăng tính độc của khí NH3, dễ xảy ra bệnh đốm trắng. Nếu pH thấp, tôm khó lột xác, tôm giảm bắt mồi, tăng tính độc của khí H2S, khó gây màu nước.
– Cách điều chỉnh nâng pH: Sử dụng vôi CaCO3 (10-15 kg/1.000m3) vào lúc 20-22 giờ; bón vôi trên bờ khi mưa (30-50 kg/1.000m2); thay nước.
– Cách điều chỉnh hạ pH: Sử dụng một số loại hóa chất có tính acid nhẹ; Hóa chất diệt tảo (BKC, Formalin, H2O2); mật rỉ đường; thay nước.
☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
Trong điều kiện thông thường, pH ban đêm có xu hướng giảm dần về gần sáng, và ban ngày có su hướng tăng dần tới 14-15 giờ. Do ban đêm xảy ra quá trình hô hấp của thủy sinh vật tạo ra nhiều CO2 (Phương trình thuận, H+ tăng). Ban ngày quá trình quang tổng hợp xảy ra nên tiêu thụ CO2 tự do trong nước (Phương trình nghịch, H+ giảm). Qua đó cho thấy CO2 cũng rất cần thiết trong môi trường nuôi tôm, cần thiết cho quá trình quang tổng hợp của tảo nhằm cân bằng hệ sinh thái.

2.2. Độ kiềm
Độ kiềm trong nước chính là tổng hàm lượng các ion Ca2+, Mg2+, HCO3–, CO32- có trong nước (các ion khác chiếm tỷ lệ nhỏ). Độ kiềm trong nước thay đổi do: Nguồn nước cấp, sử dụng vôi, Dolomite, hiện diện của giáp xác, ốc, thời tiết. Độ kiềm là hệ đệm trong nước, giúp ổn định pH, giữ tảo phát triển, cân bằng oxy hòa tan, giúp tôm mau cứng vỏ trong thời gian lột.
Độ kiềm thấp thường xảy ra những vùng nước có độ mặn thấp và thường vào mùa mưa làm cho tôm khó cứng vỏ sau khi lột xác, làm pH trong ngày dao động lớn. Tuy nhiên, độ kiềm quá cao (> 220 mg/L) gây cho tôm khó lột xác, vỏ dày, chậm lớn. Độ kiềm cao thường xảy ra ở những vùng có độ mặn cao, sử dụng nguồn nước ngầm, mùa nắng.
– Để điều chỉnh nâng độ kiềm: Có thể sử dụng Dolomite hay vôi CaCO3 (10 – 15 kg/ 1.000m3 nước) hoặc vôi đá CaO (5-7 kg/1.000m3) lúc 20-21 giờ; khoáng tạt; SODA; dùng nguồn nước có độ mặn cao trung hòa.
Phản ứng khi sử dụng vôi và Dolomite trong nước như sau:
CaCO3 + HOH + CO2 → Ca(HCO3)2 → Ca2+ + 2HCO3– (a)
CaMg(CO3)2 + CO2 + HOH → Ca2+ + Mg2+ + 4HCO3– (b)
So sánh 2 phản ứng (a) và (b), cho thấy phản ứng (b) tạo gấp đôi ion Ca2+, Mg2+, do vậy sử dụng Dolomite sẽ tạo độ kiềm nhanh hơn so với vôi CaCO3.
– Để điều chỉnh hạ độ kiềm: Sử dụng EDTA (2-3 kg/1.000m3/lần), thay nước, bổ sung nguồn nước ngọt có độ kiềm thấp.
☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
Trong thực tế nguồn nguyên liệu đầu vào có chứa hàm lượng Mg trong Dolomite hạn chế nên hầu hết Dolomite trên thị trường không đảm bảo chất lượng nên tác dụng nâng độ kiềm rất ít hiệu quả. Nếu sử dụng vôi CaO hợp lý sẽ giúp tăng độ kiềm hiệu quả hơn.
2.3. Độ mặn
Độ mặn hay độ muối của nước biển, nước có độ mặn cao có nhiều khoáng vi lượng vô cơ. Tuy nhiên nếu độ mặn cao (> 30 ‰) tôm sẽ cứng vỏ nhưng chậm lớn, do trong môi trường nước có hàm lượng dinh dưỡng hữu cơ tự nhiên giảm (các amino acid giảm).
Nếu môi trường có độ mặn thấp (< 5 ‰) dễ thiếu dinh dưỡng vô cơ, tôm dễ bị mềm vỏ nhưng nhanh lớn hơn do có nhiều hàm lượng dinh dưỡng hữu cơ tự nhiên. Độ mặn thích hợp nhất cho nuôi tôm sú là 10-25 ‰. Thực tế tôm sú vẫn phát triển tốt ở độ mặn < 5 ‰.
☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
Ở nước biển có độ mặn 35 ‰, có 6 yếu tố chính (chiếm 98 %) là:
Chloride (Cl–): 55.01% Sulfate (SO42-): 7.76% Calcium (Ca2+): 1.16%
Sodium (Na+): 30.40 % Magnesium (Mg2+): 3.91% Potassium (K+): 1.10%
Chỉ có 2 % là các thành phần khác
2.4. Nhiệt độ
Động vật thủy sản nói chung, tôm nói riêng là nhóm động vật biến nhiệt. Nhiệt độ cơ thể phụ thuộc vào nhiệt độ môi trường nước, dù chúng vận động thường xuyên thì nhiệt sinh ra từ vận động không đáng kể.
Nhiệt độ nước phụ thuộc vào khí hậu ngày đêm, thời tiết từng mùa, giông bão, lượng chất hữu cơ lơ lửng trong môi trường và độ che phủ của cây rừng.
Nhiệt độ có ảnh hưởng nhiều mặt trong hoạt động sống của tôm và các yếu tố môi trường khác như: Hô hấp; tiêu thụ thức ăn; sự mẫn cảm đối với bệnh; tăng trưởng; oxy hòa tan; sự phát triển của tảo.
Nhiệt độ cao tôm có phát triển nhanh hơn nhưng dễ bị cong thân, hàm lượng oxy hòa tan thấp, sự phát triển của tảo rất mạnh.
Nhiệt độ thấp thì tôm ăn giảm, chậm lớn, sức đề kháng yếu, tôm dễ bệnh đốm trắng.
☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
(1) Trong điều kiện thời tiết bình thường (ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới) nhiệt độ nước tầng mặt (từ 0-1,5 m) dao động từ 27-33 oC, càng xuống sâu nhiệt độ nước giảm (hình). Do đó, để duy trì ổn định nhiệt độ trong môi trường nuôi nên xây dựng đảm bảo độ sâu mương khoảng 1,5 m; sử dụng vôi sống CaO về đêm; quan tâm lịch mùa vụ thả giống.
(2) Ở những môi trường có lượng chất hữu cơ lơ lửng nhiều nhiệt độ ban đêm sẽ cao hơn những môi trường có ít hữu cơ, do phản ứng phân hủy chất hữu cơ sản sinh ra nhiệt.

2.5. Độ trong và màu nước
Độ trong và màu nước có mối tương quan với sự phát triển của phiêu sinh vật trong nước (tảo, động vật, vi khuẩn), vật chất lơ lửng hữu cơ và vô cơ (phù sa, bùn, chất huyền phù) và chất keo, ion kim loại.
Trong môi trường nuôi, nếu độ trong và màu nước biến động quá cao đều ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến sự tăng trưởng của tôm nuôi và môi trường sống của chúng. Độ trong và màu nước hợp lý sẽ làm tăng lượng oxy hòa tan trong nước, ổn định chất nước, ổn định nhiệt độ, hạn chế tảo sợi và tảo đáy phát triển, hạn chế các vi khuẩn gây bệnh phát triển và đảm bảo cân bằng sinh thái môi trường nuôi, giúp tôm tăng trưởng ổn định.
Tại những vùng nuôi ĐBSCL vào mùa mưa độ trong thường thấp do sự xáo trộn các mùn bã hữu cơ, chất vô cơ ở nền đáy và từ trên bờ trôi xuống. Nên đây là yếu tố bất lợi cho vùng nuôi tôm ĐBSCL.
2.6. Các loại khí độc NH3, H2S
Khí độc NH3, H2S tạo thành do sự phân hủy các chất hữu cơ (chất thải tôm, xác tảo tàn,… ) lắng tụ ở đáy. Chúng có mùi hôi tanh, thường tồn tại nhiều trong bùn đáy màu đen, nâu. Nếu ở nồng cao nhưng chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn thì không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe tôm vì phiêu sinh thực vật và bản thân tôm sẽ tự điều tiết cân bằng. Nhưng nếu tồn tại trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến hô hấp của tôm, mang tôm dễ bị vàng và đen, tôm bắt mồi kém, khó lột xác, dễ bị sốc và bệnh.
– Trong môi trường nước NH3 tồn tại ở 2 dạng, Amoniac (NH3) độc và Ammonium (NH4+) ít độc hơn. Sự cân bằng NH3 và NH4+ phụ thuộc vào pH.

Tính độc của NH3 tăng khi môi trường pH cao (môi trường kiềm) vì NH3 tự do bền vững, nhưng ở môi trường pH thấp (môi trường axit) NH3 dễ chuyển sang dạng NH4+ ít độc hơn.
Khi NH3 > 0,1 mg/L và pH = 8 sẽ làm giảm trăng trưởng của tôm từ 1-2 %.
Ngoài ra mức độ độc của NH3 cũng tăng khi oxy hòa tan thấp và nhiệt độ tăng.
– H2S là sản phẩm của quá trình phân giải hữu cơ và muối Sunfat (SO42-) trong điều kiện yếm khí (không có oxy) của các dòng vi khuẩn khử Lưu huỳnh có sẵn trong tự nhiên. Cơ chế hình thành H2S như sau:

H2S liên kết với sắt trong thành phần của Hemoglobin, mà thiếu sắt thì Hemoglobin không có khả năng vận chuyển oxy cung cấp cho các tế bào.
H2S tăng tính độc khi môi trường có pH thấp và nhiệt độ cao. H2S tồn tại trong nước nuôi tôm tốt nhất < 0,03 mg/L.
Để khắc phục hiện tượng NH3 và H2S tăng cao cần cải tạo kỹ trước khi lấy nước vào nuôi; thả giống mật độ vừa với quản lý; sử dụng vi sinh định kỳ và Deo Yucca 1-2 kg/1.000 m3 định kỳ.
+ Biểu đồ biểu hiện mối tương quan giữa NH3, H2S, pH và tỷ lệ độc hại

☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
(1) Trong trường hợp không thể khắc phục NH3, H2S tăng cao kịp thời do ô nhiễm quá nặng, tốt nhất nên thay nước trước, sau đó sử dụng Deo Yucca hay Zeolite.
(2) Thời gian sử dụng Deo Yucca hay Zeolite tốt nhất khoảng 16-17 giờ.