KỸ THUẬT NUÔI TÔM TRONG RỪNG NGẬP MẶN THEO HƯỚNG BỀN VỮNG – Phần 3
VI: QUẢN LÝ SỨC KHỎE TÔM NUÔI
- Quản lý sức khỏe tôm
| Việc theo dõi sức khỏe tôm nuôi phải thực hiện hàng ngày. Các công việc cần theo dõi trong quản lý sức khỏe tôm như sau:
– Thường xuyên quan sát màu sắc cơ thể, mang, hệ thống gan tụy và hành vi bơi lội, độ phản xạ: Tôm khỏe mạnh luôn tự làm sạch cơ thể; mang có màu sắc tự nhiên; hệ thống gan tụy bình thường, không sưng to, chảy rữa hay teo; màu sắc gan tụy hơi nâu; tôm còn nhỏ thường bơi thành quần đàn; khi nhấc sàng kiểm tra tôm bún mạnh ra khỏi sàng. – Kiểm tra thức ăn trong hệ thống tiêu hóa của tôm và phân tôm: Tôm khỏe luôn nhìn thấy đường thức ăn trong ruột, thức ăn phải liên tục, không bị ngắt quãng; ống tiêu hóa to; khi thải phân phải to, dài và có độ chắc, không chảy nhão (kiểm tra qua sàng ăn). – Quan sát phụ bộ và thân tôm: Tôm khỏe mạnh các phụ bộ nguyên vẹn; thân cứng chắc; không có biểu hiện đứt râu, phồng bóng nước, chấm đen, mềm. Thông thường tôm chuẩn bị lột sẽ mềm, vỏ sậm màu hơn; tôm vừa mới lột cũng mềm nhưng vỏ trong mỏng hơn. |
|
| – Kiểm tra mắt tôm: Kiểm tra buổi tối, tôm khỏe mạnh có mắt sáng và ánh sáng gôm gọn khi chúng ta rọi đèn pin trực tiếp vào mắt tôm. Khi rọi đèn pin thấy ánh sáng mắt tôm lòa có thể tôm yếu hoặc chuẩn bị lột hoặc mới lột xác.
– Kiểm tra tăng trọng: Nên định kỳ 10-15 ngày/lần kiểm tra trọng lượng tôm để xác định mức tăng trưởng và lên kế hoạch công việc tiếp theo. |
|
☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
– Nên dùng đèn pin có ánh sáng màu vàng để kiểm tra mắt tôm, không nên dùng đèn pin có ánh sáng trắng sẽ không đánh giá chính xác.
– Đối với mô hình tôm-rừng nên kiểm tra tôm trước những ngày chuẩn bị xổ nước, vì tôm yếu thường có biển biện “chạy lú, chạy cống” trước.
⮚ Lợi ích của việc chài tôm:
| – Nhằm kiểm tra được tình hình sức khỏe tôm nuôi:
Kiểm tra cơ thể tôm sạch hay bẩn; xác định vỏ mềm hay cứng, có hiện tượng phân đàn không; ước lượng tỷ lệ sống xác định độ tăng trưởng, qua đó dự đoán tốc độ phát triển của tôm trong thời gian tới. Trong vài trường hợp, chỉ chài mới bắt được những tôm bị bệnh, chết rớt đáy. |
|
| – Nhằm kiểm soát môi trường đáy vuông:
Việc chài tôm sẽ kéo theo lượng bùn, chất thải ở đáy mương theo lên bề mặt, qua đó xác định mức độ bẩn của đáy vuông; xác định mùi hôi từ bùn,… |
|
- Quản lý sức khỏe tôm thông qua sử dụng vi sinh
Trong điều kiện nuôi tôm hiện nay có nhiều con đường lan truyền mầm bệnh cho tôm như: Lan truyền theo chiều dọc từ bố mẹ sang con; Lan truyền theo chiều ngang từ nguồn nước, cua còng, từ thao tác của người chăm sóc, vật dụng cụ sử dụng chung, từ gia súc gia cầm, từ chim cò, gió xoáy,…
Đối với mô hình nuôi tôm QCCT tôm-rừng, đây là môi trường nuôi hở, diện tích lớn nên việc kiểm soát mầm bệnh rất khó khăn, chỉ có thể quản lý phòng bệnh bằng quản lý các yếu tố đầu vào và sử dụng vi sinh quản lý môi trường, lấn át địa bàn sống của vi sinh vật có hại khác.
Ngày nay, việc sử dụng vi sinh trong quản lý môi trường nuôi tôm nói chung, trong quản lý sức khỏe tôm nuôi nói riêng là yêu cầu cần thiết và đã được nhiều nơi áp dụng mang lại hiệu quả kinh tế.
Việc sử dụng vi sinh đúng cách, đúng liều, đúng thời gian không những giảm chi phí, môi trường nuôi được cải thiện, còn giúp hạn chế vi khuẩn có hại phát triển, giúp tôm tiêu hóa và hấp thụ thức ăn tốt hơn, cải thiện tăng trưởng, đáp ứng miễn dịch và tăng sức đề kháng từ đó tôm ít bệnh và chất lượng tôm được nâng cao, ATVSTP. Thời gian sử dụng vi sinh tốt nhất khoảng 9-10 giờ.
Tuy nhiên, khi sử dụng vi sinh quá nhiều (sinh khối phát triển quá mức cần thiết) sẽ gây thiếu oxy về đêm, đây là yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe tôm.
☞ Một số vấn đề cần trao đổi:
(1) Nên sử dụng vi sinh định kỳ trong suốt quá trình nuôi.
(2) Chọn những vi sinh được sản xuất bởi cơ sở có uy tín, có nguồn gốc rõ ràng.
- Quản lý sức khỏe tôm thông qua tạo thức ăn tự nhiên phát triển
| – Do mô hình nuôi QCCT tôm-rừng không bổ sung thức ăn nên cần chú ý bón phân định kỳ để tạo thức ăn tự nhiên. Tốt nhất định kỳ 20-30 ngày bón từ 0,3-0,5 kg (DAP hay Ure, NPK)/5.000 m3.
– Có thể sử dụng cành lá cây mắm, cây đước đưa xuống mương để các vi sinh vật bám và phân hủy các cành lá cây này tạo thành thức ăn tự nhiên cho tôm. ☞ Một số vấn đề cần trao đổi: (1) Việc đưa những cành lá cây xuống mương nhiều hay ít cần xem xét đến độ tuổi của cây rừng và mật độ cây rừng đang phát triển, và cần xem xét đến mùa vụ lá rụng. Ở những mô hình cây rừng còn non tuổi (< 3 năm) và mật độ cây rừng thưa thì có thể đưa cành, lá cây dọc theo các mương nước. Đối với mô hình có tuổi cây rừng cao (> 3 năm) và mật độ cây rừng dày, mùa lá rụng nhiều thì chỉ cần bổ sung phân vô cơ định kỳ. |
- Quản lý sức khỏe tôm thông kích thích tôm lột xác đúng chu kỳ
Tôm sú nói riêng, động vật giáp xác nói chung lột xác là một quá trình phức tạp, cần có thời gian và sự tham gia của nhiều bộ phận khác trong cơ thể. Quá trình lột xác chỉ xảy ra khi sự tích lũy đầy đủ dinh dưỡng Lipid ở gan tụy; sinh tổng hợp Protein mới ở các mô cơ; và sự sẵn sàng của các hormone; sự hấp thu nước để gia tăng kích thước. Quá trình lột xác cần có sự chuẩn bị lâu dài, nếu có một khâu nào đó trục trặc thì sự lột xác sẽ không xảy ra hoặc xảy ra sẽ bị sự cố dị hình. Thường tôm nhỏ có chu kỳ lột xác ngắn, tôm càng lớn chu kỳ lột xác càng kéo dài.
Trong điều kiện nuôi nếu người quản lý đánh giá tốt chu kỳ lột xác của tôm thì sẽ giúp tôm phát triển nhanh, khỏe mạnh, có sức đề kháng cao. Ngoài điều kiện cần và đủ cho quá trình lột xác xảy ra một cách tự nhiên, người nuôi có thể kết hợp kích thích tôm lột xác bằng các biện pháp như: Thay đổi môi trường nước, thay đổi nhiệt độ, sử dụng Saponin. Cách thực hiện như sau:
– Đối với thay đổi môi trường nước: Khi kiểm tra nhận thấy tôm vỏ dày, có dấu hiệu rong rêu bám trên thân, tiến hành xổ nước thật cạn sau đó lấy nước mới thật nhiều vào vuông theo con nước thủy triều. Khi có dòng nước mới sẽ kích thích tôm lột xác.
– Đối với thay đổi nhiệt độ: Tại những ngày nắng nóng, tiến hành xổ bỏ bớt nước và phơi nắng từ 1-2 ngày sau đó kết hợp rải vôi khắp mặt mương (CaCO3: 5-10 kg/1.000m3 mương) để nâng nhiệt độ nước cao hơn bình thường, sau đó tối cùng ngày lấy nước mát vào sẽ kích thích tôm lột xác.
– Đối với sử dụng Saponin: Công việc xổ bỏ bớt nước như 2 phương pháp trên, sau đó dung Saponin (10-15 kg/1.000m3) tạt đều khắp mặt mương và tối cùng ngày lấy nước mới theo thủy triều vào sẽ kích thích tôm lột xác. Việc sử dụng Saponin có thể kết hợp diệt cá tạp định kỳ.
VII: THU HOẠCH
Cũng như mô hình nuôi tôm QCCT khác, việc thu hoạch tôm ở mô hình tôm-rừng thực hiện theo con nước thủy triều và thu tỉa những con đạt kích cỡ thương phẩm.
Có thể thu hoạch tôm và các đối tượng thủy sản khác bằng cách đặt lú trong mương, xổ nước qua miệng cống; hay đặt lờ, lộp, câu đối với thu cua.
Nếu thu hoạch tôm bằng xổ nước thì nên tranh thủ xổ nước thu hoạch liên tục 2-3 ngày ở đầu những con nước thủy triều, sau đó ngưng xổ 1-2 ngày để tôm lột có thời gian cứng vỏ, và tiếp tục thu hoạch thêm đến hết con nước thủy triều.
